Ngày 7/7/2023, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) tổ chức chương trình Hội thảo công tác chuyên môn tháng 7 về ISO/IEC 17043 và nâng cao hiệu quả triển khai công tác thử nghiệm thành thạo (TNTT). Diễn giả tại chương trình là bà Hồ Trần Ngọc Quyên - Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Thử nghiệm Thành thạo, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 (Quatest 3).
Chương trình được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến với sự tham dự của TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL, cùng đại diện lãnh đạo, cán bộ các đơn vị trực thuộc Tổng cục.
Phát biểu tại chương trình, TS. Hà Minh Hiệp cho biết, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ về TCĐLCL là yêu cầu cấp thiết và phải được thực hiện thường xuyên. Hội thảo là chương trình nằm trong chuỗi hoạt động diễn ra hàng tháng nhằm nâng cao nhận thức về TCĐLCL cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động các đơn vị thuộc Tổng cục.
TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL.
Theo đó, phần trình bày của diễn giả gồm 2 vấn đề chính, thứ nhất là nhận thức về tiêu chuẩn ISO/IEC 17043, thứ hai là đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả triển khai hoạt động TNTT.
Trước tiên, về tiêu chuẩn ISO/IEC 17043 – Đánh giá sự phù hợp – yêu cầu chung đối với TNTT. Tiêu chuẩn này quy định yêu cầu chung về năng lực và tính công bằng của nhà cung cấp TNTT và quy trình tổ chức thống nhất của tất cả chương trình TNTT. Tài liệu này có thể được áp dụng là nền tảng cơ bản về yêu cầu kỹ thuật cụ thể cho từng lĩnh vực áp dụng riêng biệt.
Trong đó, TNTT là một trong những công cụ quan trọng đối với các tổ chức công nhận, các cơ quan quản lý nhà nước và khách hàng để đánh giá năng lực kỹ thuật của các phòng thử nghiệm, phòng xét nghiệm và phòng hiệu chuẩn (sau đây gọi tắt là phòng thí nghiệm – PTN) đồng thời giúp các PTN trong hoạt động kiểm soát chất lượng cũng như chứng minh năng lực kỹ thuật đối với các bên quan tâm.
TNTT ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện quốc tế với nhiều mục đích. Một số mục đích của TNTT có thể thấy như: Đánh giá việc thực hiện các phép thử/ phép đo cụ thể của các PTN và giám sát năng lực của PTN; Nhận biết vấn đề trong PTN và các hành động khắc phục/ cải tiến; Thiết lập tính hiệu lực và khả năng so sánh của các phương pháp thử hay phương pháp đo; Xác nhận giá trị sử dụng của phương pháp, tuyên bố về độ không đảm bảo đo; Xác định giá trị ấn định cho mẫu chuẩn và đánh giá sự phù hợp của mẫu chuẩn; Hỗ trợ cho những tuyên bố tương đương giữa các phép đo của các Viện đo lường quốc tế.
Chương trình được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Tiếp theo, về đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả triển khai hoạt động TNTT, bà Hồ Trần Ngọc Quyên cho biết, hiện nay, TNTT đang là một trong những tiêu chí quan trọng để chỉ định/ công nhận PTN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bộ, ngành chưa quan tâm nhiều đến việc sử dụng TNTT như một công cụ để chỉ định PTN. Một số bộ, ngành quy định phân loại chỉ tiêu chưa hợp lý, quá cụ thể dẫn đến gây khó khăn cho PTN khi lựa chọn chương trình TNTT...
Mặt khác, các nhà cung cấp TNTT đã được công nhận tại Việt Nam cũng tăng nhiều trong những năm gần đây, điều này bước đầu hình thành thị trường cạnh tranh, dẫn đến có nhà cung cấp TNTT giảm giá thành khiến cho chất lượng chương trình TNTT giảm.
Ngoài ra, công tác TNTT tại nước ta chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: hóa và vi sinh trong thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và phân bón,... Trong đó, một số lĩnh vực chưa phát triển nhiều như: cơ điện, vật liệu (cơ, lý tính), đo lường... Một số lĩnh vực hẹp, chỉ có một số ít PTN có khả năng thực hiện dẫn đến khó triển khai chương trình TNTT...
Từ những vấn đề nêu trên, bà Hồ Trần Ngọc Quyên đưa ra một số kiến nghị. Cụ thể, các cơ quan quản lý cần ưu tiên các kết quả TNTT từ chương trình đã được công nhận khi đánh giá chỉ định/ tái chỉ định; đưa ra định hướng các lĩnh vực cần chú ý phát triển trong từng giai đoạn để tập trung phát triển chương trình TNTT; Cần có chính sách/ quy định cụ thể, thống nhất về việc sử dụng TNTT là công cụ để đánh giá, xem xét năng lực của các PTN phù hợp với phạm vi chỉ định (đơn vị tổ chức, đối tượng, chỉ tiêu, nền mẫu, tần suất...).
Cơ quan quản lý cần phối hợp với nhà cung cấp TNTT có năng lực để nghiên cứu thực hiện tổ chức chương trình TNTT cho các chỉ tiêu trong phạm vi, đặc biệt các chỉ tiêu mới, khó... hiện chưa có đơn vị tổ chức để có cơ sở đánh giá năng lực PTN; Tổ chức các chương trình TNTT nhiều vòng. Từ đó có thể phân tích sâu hơn về năng lực của các PTN trong lĩnh vực liên quan, để có biện pháp nâng cao năng lực của các PTN (nếu cần thiết).
Đồng thời, cơ quan quản lý cần truyền thông để PTN duy trì tham gia chương trình TNTT để có thể theo dõi và đánh giá dữ liệu của PTN theo thời gian; Có thể lựa chọn chương trình phù hợp nhất với nhu cầu (mẫu, phương thức đánh giá, chính sách của nhà cung cấp TNTT); Hiểu rõ và sử dụng hiệu quả kết quả TNTT để cải tiến quy trình (ngoài mục đích đáp ứng yêu cầu công nhận/ chỉ định)...
Nhiều ý kiến tranh luận, nhiều câu hỏi thiết thực được đặt ra tại chương trình.
Tại chương trình, TS. Hà Minh Hiệp đánh giá cao nội dung truyền tải của bài trình bày: “Bài trình bày tại hội thảo là những nội dung chuyên môn sâu sát, bổ ích với lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Tổng cục TCĐLCL. Trong những tháng tiếp theo, tôi hy vọng các đơn vị khác sẽ có nhiều bài trình bày hấp dẫn và sâu sắc hơn nữa để nâng cao công tác chuyên môn cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Tổng cục”.
Tại phần thảo luận, nhiều ý kiến tranh luận, nhiều câu hỏi thiết thực được đặt ra. Mọi câu hỏi đã được diễn giả trả lời thỏa đáng, mang lại kiến thức bổ ích và nâng cao tinh thần học hỏi cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Tổng cục.
Thanh Tùng
Nguồn: Vietq