Mặc dù đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của thị trường trong nước, tuy nhiên, thời gian qua, nhiều nhà máy sản xuất phân bón Việt Nam chỉ chú trọng vào số lượng chứ chưa thật sự quan tâm đến nâng cao chất lượng sản phẩm.
Từ một quốc gia phải phụ thuộc vào nguồn phân bón nhập khẩu, trong khoảng 30 năm trở lại đây, ngành phân bón Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, chủ động được nguồn cung và thậm chí xuất khẩu sản phẩm sang hơn 20 quốc gia trên thế giới.
Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện, cả nước có 841 cơ sở sản xuất phân bón với tổng công suất 29,25 triệu tấn/năm. Nhu cầu sử dụng phân bón cho sản xuất nông nghiệp nước ta khoảng 10,5 triệu tấn/năm. Trong đó, sản lượng từ các nhà máy sản xuất trong nước cung ứng khoảng 7,5 triệu tấn. Các nhà máy sản xuất phân bón đã sản xuất được hầu hết các loại phân bón chủ lực như: phân lân, phân urê, phân bón hỗn hợp NPK (trừ phân SA và phân Kali phải nhập khẩu).
Dây chuyền sản xuất phân bón NPK mang thương hiệu Đầu Trâu tại KCN Quán Ngang.
Mặc dù đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của thị trường trong nước, tuy nhiên, thời gian qua, nhiều nhà máy sản xuất phân bón chỉ chú trọng vào số lượng chứ chưa thật sự quan tâm đến việc nâng cấp chất lượng sản phẩm. Cả ba loại phân bón chủ lực là: phân lân, phân urê, phân bón hỗn hợp NPK đang phải đối mặt với nhiều hạn chế, thách thức.
Với phân NPK, giống như nhiều quốc gia khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sản xuất theo ba phương pháp chính: phối trộn cơ học, vê viên tạo hạt và phương pháp hóa học. Chỉ một số ít doanh nghiệp áp dụng phương pháp hóa học vào sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng phương pháp phối trộn cơ học và vê viên tạo hạt do quy trình sản xuất này đơn giản, không đòi hỏi công nghệ hiện đại, vốn đầu tư ít.
Chính vì điều này mà hiện nay công nghệ sản xuất của nhiều nhà máy NPK trong nước đã lạc hậu. Hệ quả, mặc dù phân NPK của nước ta đa dạng về chủng loại nhưng chất lượng chưa cao, hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, khó kiểm soát chất lượng sản phẩm đầu ra, dễ bị làm nhái, làm giả.
Với phân urê, đây là loại phân đạm được sản xuất nhiều tại Việt Nam do hàm lượng Ni-tơ cao và công nghệ sản xuất phổ biến nhất. Tuy nhiên, nhiều nhà máy phân bón urê xây dựng lâu năm đến nay đã trở nên cũ kỹ, công nghệ sản xuất lỗi thời.
Còn với phân lân, theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam đã sản xuất được 4 loại phân lân, chia làm hai nhóm chính. Nhóm phân lân đơn gồm phân supe lân và phân lân nung chảy. Nhóm thứ hai là DAP và phân MAP. Trong các sản phẩm nêu trên, phân DAP và MAP có quy trình sản xuất phức tạp, đòi hỏi công nghệ hiện đại. Các nhà máy sản xuất DAP, MAP trong nước hiện tại đều sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến với chi phí đầu tư lớn.
Ðối với phân lân đơn, công nghệ sản xuất của Việt Nam chưa được đánh giá cao. Cụ thể, phân supe lân là loại phân bón đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam, các nhà máy được xây dựng từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Hiện, các nhà máy này đã cũ, công nghệ ở mức trung bình, tiêu hao nhiều năng lượng, chất lượng sản phẩm không cao.
Cục Bảo vệ thực vật nhận định, nhu cầu phân bón vô cơ trong nước và thế giới đang chững lại, tình trạng dư cung tiếp tục diễn ra. Các sản phẩm phân bón trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn của hàng nhập khẩu. Nguyên nhân là do các nước có lợi thế công nghệ sản xuất và một số nước được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt 0% theo Hiệp định ATIGA (Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN).
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu gây nên tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài trên diện rộng khu vực đồng bằng sông Cửu Long làm giảm diện tích canh tác, giảm nhu cầu sử dụng phân bón của bà con nông dân. Giá phân bón thời gian qua biến động tăng do giá nguyên liệu đầu vào (như NH3, S) tăng cao, giá dầu và chi phí vận chuyển cũng tăng, gây ảnh hưởng đến giá và sức tiêu thụ phân bón… Trước những thực tế nêu trên, để phát triển ngành phân bón bền vững, việc nâng cao chất lượng sản phẩm phân bón là xu thế tất yếu.
Ðể tăng năng lực sản xuất cũng như chất lượng phân bón, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Hoàng Trung cho biết, các doanh nghiệp sản xuất phân bón cần đầu tư một cách tập trung, áp dụng công nghệ tiên tiến, cắt giảm chi phí sản xuất, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý để cạnh tranh với phân bón nhập khẩu. Ðẩy mạnh phát triển phân bón hữu cơ đang là xu thế tất yếu của thế giới và là chủ trương lớn của Chính phủ, do đó các doanh nghiệp cần có kế hoạch, chủ động, tích cực, từng bước chuyển dần một phần sang sản xuất, kinh doanh phân bón hữu cơ nhằm cân đối giữa phân bón hữu cơ và phân bón vô cơ, đáp ứng nhu cầu của người nông dân; hướng đến các mặt hàng chất lượng cao, an toàn sức khỏe, bảo vệ môi trường.
Cùng với đó, Nhà nước cần tiếp tục có những chính sách để tạo môi trường công bằng cho ngành sản xuất phân bón trong nước phát triển, chủ động nguồn cung, mang lại lợi ích cho người nông dân. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn sản xuất, xây dựng thương hiệu, ưu đãi trong giao và thuê đất cho các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất phân bón, nhất là sản xuất phân bón hữu cơ…
Nguồn: vietq.vn